Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa ở nước ta hiện nay

Thứ ba - 04/03/2025 11:24 4 0

Sinh thời, Chủ tịch Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trong sự nghiệp xây dựng văn hóa nước nhà. Trong bối cảnh mới hiện nay, những quan điểm của Người cần tiếp tục được vận dụng sáng tạo, linh hoạt, qua đó góp phần phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh cho sự phát triển. 

Tác phẩm Lớp học hát quan họ của tác giả Nguyễn Mạnh Linh
Tác phẩm Lớp học hát quan họ của tác giả Nguyễn Mạnh Linh

1- Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội mà còn là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, Sắc lệnh thành lập Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 31-12-1945, đã nhấn mạnh: “Ủy ban có nhiệm vụ nghiên cứu một kế hoạch thiết thực để kiến thiết đất nước về mặt kinh tế, tài chính, hành chính, xã hội, văn hóa và nghiên cứu những dự án kiến thiết khác”(1). Trong quan niệm về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể thấy văn hóa không chỉ là những giá trị về vật chất và tinh thần của con người mà còn bao gồm cả bản sắc văn hóa, di sản văn hóa được kết tinh trong suốt chiều dài của lịch sử do con người sáng tạo, thể hiện khí phách, tâm hồn dân tộc. Một quốc gia, dân tộc không biết giữ gìn, kế thừa và phát huy di sản văn hóa thì sẽ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, bởi đó là công tác có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Theo Người, coi trọng và bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là yêu cầu tất yếu đối với người cộng sản như thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin: “Những người cộng sản chúng ta phải rất quý trọng cổ điển. Có nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ ngọn núi cổ điển đó. Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin thì càng phải coi trọng những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cha ông”(2). Người luôn nhắc nhở mọi người, nhất là cán bộ, đảng viên phải biết quý trọng truyền thống dân tộc: “Dân ta phải biết sử ta/Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định di sản văn hóa được coi là một bộ phận quan trọng của truyền thống dân tộc, thể hiện sinh động bản sắc dân tộc. Chính cội nguồn giá trị văn hóa, tư tưởng truyền thống, ý chí độc lập và khát vọng tự do đã trở thành nền tảng văn hóa tinh thần, là động lực vĩ đại của sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Vấn đề bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục truyền thống, góp phần tạo dựng những tiền đề cơ bản cho sự phát triển. 

Ý thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn di sản, ngày 23-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 65/SL(4) về việc “ấn định nhiệm vụ Đông phương Bác Cổ học viện” có nhiệm vụ “bảo tồn tất cả các cổ tích trong toàn cõi Việt Nam” (khái niệm “cổ tích” trong Sắc lệnh ngày nay được gọi là di sản văn hóa, gồm di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể). Đây chính là sắc lệnh đầu tiên đặt nền móng cho sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Sắc lệnh được ban hành vào thời điểm đất nước còn muôn vàn khó khăn với giặc dốt, giặc đói, giặc ngoại xâm, thể hiện rõ tầm nhìn xa, trông rộng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sắc lệnh ngắn gọn, súc tích đã bao quát được những tư tưởng, quan điểm sâu sắc của Người về vấn đề bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. 

Để bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa của dân tộc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cần phải dựa trên cơ sở trân trọng, kế thừa thành quả của các thế hệ đi trước, đồng thời ra sức gìn giữ, phát huy để cái hay, cái đẹp được nảy nở, lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng, nhân lên những giá trị tốt đẹp, Người nhắc nhở: “Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ…; Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý…; Cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm; Cái gì mới mà hay thì ta phải làm”(5). Nhưng đồng thời phải tỉnh táo để chống lại sự xâm nhập của mọi thứ văn hóa độc hại, kiên quyết phê phán và loại bỏ những tập tục lạc hậu, cổ hủ. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân đấu tranh chống lại tác hại của văn hóa nô dịch: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc”(6). Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương coi trọng giữ gìn bản sắc văn hóa không tách rời với tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới: “… phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại chúng”(7). 

Để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn quan tâm tới việc xây dựng bảo tàng, bởi nơi đây chính là trường học tốt về lịch sử, đích thân Người đã đến duyệt lại nội dung trưng bày Viện Bảo tàng cách mạng trước ngày mở cửa. Người cho rằng: “Viện Bảo tàng Cách mạng cũng giống như một cuốn sử. Nó cho ta thấy rõ ông cha ta đã khó nhọc như thế nào mới xây dựng nên đất nước tươi đẹp như ngày nay”(8); và “nếu mọi người học tập thấm nhuần tinh thần anh dũng và chí khí kiên cường, học được ở Viện bảo tàng, mà quyết tâm làm đúng chính sách của Đảng, đi đúng đường lối quần chúng, đặt lợi ích chung lên lợi ích riêng, thì chúng ta nhất định thắng lợi trong mọi việc”(9). 

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn nhận thức sâu sắc, nhất quán về tầm quan trọng của công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, đồng thời đề ra những quan điểm, chủ trương để nâng cao nhận thức của toàn xã hội và định hướng cho các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, từ đó khơi dậy lòng tự hào dân tộc và thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đất nước, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa hiện nay.

Từ Sắc lệnh số 65/SL, ngày 23-11-1945, “Về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam” đến Nghị định số 519-TTg, ngày 29-10-1957, của Thủ tướng Chính phủ “Quy định thể lệ bảo tồn cổ tích”, Pháp lệnh 14-LCT/HĐNN7, ngày 4-4-1984, của Hội đồng Nhà nước “Về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh”, đều cho thấy sự nhất quán trong quan điểm cũng như thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Đó chính là cơ sở, nền tảng quan trọng để định hướng công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam. 

Nhận thấy được tầm quan trọng của xã hội đối với công tác bảo tồn di sản văn hóa, Đảng ta đã chủ trương: “Nhà nước cùng với nhân dân xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết cho văn hóa và nghệ thuật, giữ gìn và tôn tạo những di tích lịch sử, văn hóa”(10). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng là bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước” tiếp tục nhấn mạnh cần huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống… Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội”.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng (ngày 24-11-2021), cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ”(11). 

Lưu giữ các di sản văn hóa có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục truyền thống (trong ảnh: Lễ dựng cây nêu đón tết, tác giả: Nguyễn Thị Bích Hường)

2- Trong những năm qua, trên cơ sở vận dụng các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên cả nước đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận.

Thứ nhất, hệ thống văn bản các chính sách, pháp luật về di sản văn hóa từng bước được xây dựng, hoàn thiện hơn. Những chủ trương, đường lối của Đảng, về văn hóa nói chung và công tác bảo tồn di sản văn hóa nói riêng đã được thể  chế hóa bằng nhiều luật và các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu biểu là Luật Di sản văn hóa năm 2001; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa năm 2009; Văn bản hợp nhất Luật di sản văn hóa năm 2013; các nghị định, thông tư hướng dẫn chi tiết…, tạo nên hành lang pháp lý vững chắc cho công tác bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Chính phủ đã xây dựng và triển khai thực hiện một loạt chiến lược, chương trình, các đề án bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, như Đề án Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020 (Quyết định số 1270/QĐ-TTg, ngày 27-7-2011, của Thủ tướng Chính phủ); Đề án Kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2017 - 2020” (Quyết định số 2493/QĐ-TTg, ngày 22-12-2016, của Thủ tướng Chính phủ); Chương trình Bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam, giai đoạn 2021 - 2025” (Quyết định số 1230/QĐ-TTg ngày 15-7-2021, của Thủ tướng Chính phủ)… 

Thứ hainhận thức của cộng đồng về di sản văn hóa cũng như về vai trò của công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa được nâng cao. Ngày 23-11 hằng năm được chọn là Ngày Di sản văn hóa Việt Nam, qua đó góp phần tuyên truyền, tạo sức lan tỏa lớn đến với toàn xã hội về giá trị, vai trò của di sản văn hóa đối với sự phát triển của đất nước. Thông qua đó, nhận thức của nhân dân ngày được nâng cao, từ đó khuyến khích đông đảo người dân tham gia vào công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. 

Thứ bahoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa có nhiều khởi sắc trên khắp cả nước. Theo Cục Văn hóa cơ sở, cả nước hiện có 8.868 lễ hội, trong đó có 8.103 lễ hội truyền thống, 687 lễ hội văn hóa, 74 lễ hội ngành, nghề, 4 lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài. Những năm gần đây, nhiều lễ hội truyền thống được phục hồi đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc(12). Công trình di tích lịch sử, kiến trúc, văn hóa được tu bổ, tôn tạo hằng năm, trở thành điểm đến hấp dẫn đối với nhiều khách du lịch trong và ngoài nước như trùng tu, di tích Chùa Cầu - một biểu tượng hơn 400 năm tuổi của Hội An; công trình điện Kiến Trung thuộc quần thể di tích Kinh thành Huế... Bên cạnh đó, nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được ghi danh là di sản cấp quốc gia, trong đó có nhiều di sản thế giới. Các hoạt động, sự kiện về bảo tồn và phát huy các di sản phi vật thể đã được tổ chức, tạo điều kiện cho các nghệ nhân, cộng đồng tham gia bảo tồn và truyền dạy được triển khai hiệu quả.

Thứ tưviệc ứng dụng công nghệ vào trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ngày càng được triển khai một cách hiệu quả, như việc số hóa tài liệu, tư liệu về di sản văn hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử để lưu trữ và quản lý thông tin về di sản. Công nghệ thực tế ảo, thực tế tăng cường (AR/VR) cũng đã được ứng dụng nhằm tái hiện các di sản văn hóa, giúp người dân và du khách có thể tiếp cận, trải nghiệm di sản một cách sinh động nhất. Từ năm 2021, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam chính thức ra mắt công nghệ tham quan trực tuyến 3D tour để phục vụ du khách; tour tham quan số 360 độ trên nền tảng công nghệ 3D đã giúp Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam thu hút đông đảo khách tham quan. Công nghệ 3D/360 cũng đã được áp dụng để trưng bày, bảo tồn và phục dựng di sản văn hóa như: sử dụng công nghệ quét 3D trong đo đạc tạo hình để tái tạo di sản một cách chính xác; ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo để phân loại và phục dựng di sản, ngoài ra công tác quảng bá và giới thiệu di sản cũng được ứng dụng công nghệ hữu hiệu. Đây là giải pháp nhằm hoàn thành mục tiêu của Chương trình số hóa di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 đã đặt ra: 100% các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu được UNESCO ghi danh; 100% các di tích quốc gia đặc biệt được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số; 100% các bảo vật quốc gia, các di sản trong danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số. Hiện nay, một số công trình đã cho thấy thành công bước đầu, như di tích hoàng cung Thăng Long thời nhà Lý phục dựng bằng công nghệ 3D; di tích khác như chùa Diên Hựu thời Lý; số hóa 3D di tích quốc gia đình Tiền Lệ; tour tham quan ảo 360 độ giới thiệu về các triều đại gắn với Hoàng thành Thăng Long của Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội. Những kết quả đáng ghi nhận trên trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ở nước ta thời gian qua đã góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, lan tỏa, quảng bá các giá trị di sản văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Tuy nhiên, công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa hiện nay vẫn còn gặp một số hạn chế. Các văn bản pháp luật, các chính sách đã được ban hành nhiều nhưng còn thiếu đồng bộ, còn chồng chéo giữa các cơ quan quản lý, ban, ngành. Quy trình trùng tu bảo tồn còn gặp nhiều khó khăn, rườm rà, qua nhiều cơ quan, dẫn đến thiếu kịp thời và ảnh hưởng đến an toàn của di sản văn hóa. Công tác quản lý, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa chưa thực sự hiệu quả do nhiều nguyên nhân, như đội ngũ lãnh đạo, quản lý về lĩnh vực văn hóa còn thiếu kiến thức, am hiểu về lĩnh vực văn hóa; tình trạng xâm lấn di sản vẫn còn diễn ra, đặc biệt ở những di sản văn hóa vật thể, các di tích lịch sử ít được khai thác nhằm mục đích phát triển du lịch; thiếu sự quan tâm, nghiên cứu những di tích, di sản văn hóa “đơn lẻ”, ít có khả năng khai thác phục vụ du lịch ở các địa phương mặc dù có giá trị văn hóa, lịch sử. Chưa nhìn nhận một cách đúng đắn vai trò của các bên liên quan đến công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa. Hiện nay, công tác này chỉ mới triển khai và thực hiện ở các cấp chính quyền, nhưng lực lượng chính và có yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất chính là nhân dân, cộng đồng địa phương thì còn hạn chế. Nhận thức về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ở một số địa phương còn thiếu sâu sắc và toàn diện. Một số cơ quan quản lý thiếu chủ động, buông lỏng quản lý, chưa giải quyết được mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, dẫn đến người dân tự phát trong việc kinh doanh dịch vụ, thiếu quy hoạch, gây mất mỹ quan và ảnh hưởng đến di sản. Tác động của yếu tố môi trường, biến đổi khí hậu đến di sản kiến trúc nước ta hiện nay cũng là một vấn đề cần quan tâm. Sự gia tăng nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, cường độ thời tiết cực đoan đã được UNESCO xác định là mối đe dọa với văn hóa, trong đó có công trình di sản. Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới, chịu ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu, dẫn tới nhiều công trình kiến trúc di sản văn hóa chịu ảnh hưởng cả trực tiếp và gián tiếp như nguy cơ xảy ra hỏa hoạn; hư hại cảnh quan cấu trúc công trình; gia tăng nấm mốc, mối mọt; xâm mặn, xói mòn di tích…

Nâng cao nhận thức về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tạo sức lan tỏa về giá trị, vai trò của di sản văn hóa đối với sự phát triển của đất nước (trong ảnh: Dưới mái đình So (huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội) của tác giả Lê Ngọc Huy)

3- Thời gian tới, để nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đạt hiệu quả, cần quan tâm thực hiện một số giải pháp:

Thứ nhấttiếp tục tạo điều kiện và vận động nhân dân tích cực tham gia hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Tuyên truyền, giáo dục, vận động người dân để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Tiếp tục triển khai hiệu quả chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Thứ haitôn trọng và tạo điều kiện bảo đảm sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa, các sắc thái văn hóa địa phương. Tiến hành đồng bộ các giải pháp nhằm tạo điều kiện cho cộng đồng thể hiện và phát triển bản sắc văn hóa địa phương. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc tổ chức các sự kiện, lễ hội, và các hoạt động văn hóa độc đáo, đặc trưng của khu vực. Đồng thời, cần hỗ trợ và khuyến khích các nghệ nhân, nghệ sĩ địa phương phát huy khả năng sáng tạo của họ bằng các chính sách hỗ trợ tài chính, không gian làm việc và cơ hội biểu diễn… Trong nghệ thuật và thủ công truyền thống, nên có các khóa đào tạo và các chương trình hỗ trợ để truyền đạt kỹ năng và kinh nghiệm giữa các thế hệ; triển khai xây dựng các trung tâm văn hóa, khuyến khích nghiên cứu, sưu tầm văn hóa địa phương. 

Thứ baxây dựng môi trường giáo dục và tạo điều kiện cho việc truyền thụ kiến thức về di sản văn hóa trong cộng đồng. Văn hóa được sáng tạo ra trong môi trường cộng đồng, văn hóa phải được sống trong môi trường cộng đồng. Vì vậy, không có môi trường nào có thể phát huy được hiệu quả tối ưu nhất trong việc truyền thụ những kiến thức về văn hóa của mỗi địa phương bằng chính môi trường cộng đồng, thông qua các chương trình sinh hoạt tập thể, đặc biệt vấn đề giáo dục ý thức, trách nhiệm về di sản văn hóa. Đối với giáo dục trong nhà trường, cần xây dựng các chương trình giáo dục cân bằng, gắn với phát triển con người toàn diện đối với mỗi học sinh, nhằm khơi dậy, nuôi dưỡng đam mê nghệ thuật trong mỗi con người, góp phần giáo dục lòng tự hào với văn hóa dân tộc và tạo ra môi trường để truyền thụ kiến thức về di sản văn hóa cho thế hệ trẻ từ cộng đồng.

Thứ tưkhuyến khích sự sáng tạo và đổi mới trong hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa. Việc bảo tồn di sản văn hóa không phải bảo vệ một cách máy móc, cần vận dụng nguyên tắc, phương châm, phương pháp đổi mới một cách hiệu quả nhất trong công tác bảo tồn: tư duy đổi mới, hành động đổi mới, nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn. Sự sáng tạo và đổi mới là yếu tố quan trọng để di sản văn hóa không chỉ được bảo tồn mà còn phát triển và sống động. Chính sách cần khuyến khích sự sáng tạo trong việc áp dụng công nghệ, nghệ thuật và các phương tiện hiện đại để bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa.

Thứ nămđẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Ngoài việc ứng dụng công nghệ 3D/360, AR/VAR, cần nhanh chóng ứng dụng những nghiên cứu về công nghệ viễn thám và GIS trong lĩnh vực bảo tồn di tích đã được Viện Bảo tồn di tích (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) thực hiện. Hệ thống viễn thám và GIS cung cấp các chức năng cơ bản, bao gồm: bản đồ trực tuyến; văn bản quản lý di sản; danh mục ảnh các chỉ số; danh mục ảnh sản phẩm; danh mục ảnh viễn thám. Từ các bản đồ, ảnh các chỉ số, ảnh viễn thám có thể đánh giá sự thay đổi về không gian cảnh quan, kết hợp với các dữ liệu về môi trường dự đoán diễn biến tình hình ngập lụt, biến đổi về môi trường đất, nước, không khí của khu di sản, từ đó có những biện pháp ứng phó kịp thời, giảm thiểu tác hại có thể xảy ra. 

Thứ sáuchú trọng tiến hành song song công tác “tiền kiểm” và “hậu kiểm” trong trùng tu, tôn tạo, phục dựng di sản văn hóa. Trước khi tiến hành trùng tu, tôn tạo, phục dựng di sản văn hóa cần xây dựng hồ sơ chi tiết, lấy ý kiến chuyên gia, số hóa dữ liệu gốc, cụ thể hóa bằng mô hình 3D/360 để có cái nhìn tổng quát trước khi tiến hành. Đồng thời, quá trình triển khai thực hiện cũng cần có sự giám sát chặt chẽ, kết thúc cần có đánh giá, so sánh, đối chiếu với hồ sơ gốc ban đầu để bảo đảm tính hiệu quả trong công tác bảo tồn di sản văn hóa, qua đó lan tỏa các giá trị văn hóa trong đời sống đương đại, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước./.

Nguyễn Toàn - TS Lê Văn Thuật Học viện Chính trị khu vực III - Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế (tapchicongsan.org.vn)

____________

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 610
(2) Trần Đương: Bác Hồ như chúng tôi đã biết, Nxb. Thanh Niên, 2009, tr. 166
(3)  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 255
(4) Bảo vật quốc gia: Tập sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 - 1946, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2017, tr. 120
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr.112-113
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 40
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 40
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 6
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 257
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 92
(11) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 979, tháng 12-2021, tr. 11
(12) Hà Phương: “Số hóa 100% dữ liệu các loại hình lễ hội truyền thống: Tạo chuyển biến trong quản lý, tổ chức lễ hội”, Báo Văn hóa điện tử, ngày 11-12-2023 

Tác giả bài viết: Thành Lộc - tổng hợp

Nguồn tin: hochiminh.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập14
  • Hôm nay535
  • Tháng hiện tại19,945
  • Tổng lượt truy cập1,477,320
LỊCH CÔNG TÁC TUẦN
hồ chí minh
Đẩy mạnh học tập làm theo HCM
van ban quy pham phap luat
chính sách mới chính phủ
gop y du thao
hop thu dien tu
tuyen truyen
cổng dữ liệu quốc gia
Chuyển đổi số Tây Ninh
VNEID
Bản đồ thể chế
Đường dây nóng tiếp nhận PAKN
Công báo Chính phủ
công báo
Trợ giúp pháp lý
Quy hoạch sử dụng đất
Công khai ngân sách
Bản đồ du lịch
Giải đáp chính sách online
1022
Hỏi đáp trực tuyến
Kiểm tra chữ ký số trên văn bản điện tử
BỘ PHÁP ĐIỂN
NỘP HỒ SƠ TRỰC TUYẾN
Liên kết website
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây